

Ý kiến thăm dò
Bạn đánh giá thế nào về cổng thông tin điện tử huyện Thiệu Hóa
Liên kết Website
Thiệu Hóa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiệu Hóa | |
---|---|
Huyện | |
Địa lý | |
Diện tích | 160,68 km² [1] |
Dân số (2012) | |
Tổng cộng | 152.782 người[1] |
Dân tộc | Kinh |
Hành chính | |
Quốc gia | Việt Nam |
Tỉnh | Thanh Hóa |
Huyện lỵ | Vạn Hà |
Thành lập | 1900 |
Thành lập | 1996: Tái lập |
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 27 xã |
Mã hành chính | 398[2] |
- Phía đông giáp huyện Hoằng Hóa (ranh giới tự nhiên là sông Mã) và thành phố Thanh Hóa;
- Phía nam giáp huyện Đông Sơn và huyện Triệu Sơn;
- Phía tây giáp huyện Triệu Sơn và huyện Thọ Xuân;
- Phía bắc giáp huyện Yên Định.
Đây là địa phương có tuyến Đường cao tốc Ninh Bình – Thanh Hóa đi qua đang được xây dựng.
Vị trí huyện Thiệu Hóa (trước năm 2012) trên bản đồ tỉnh Thanh Hóa |
Thiệu Hóa gồm 1 thị trấn Vạn Hà và 27 xã: Thiệu Châu, Thiệu Chính,Thiệu Công, Thiệu Đô, Thiệu Duy,Thiệu Giang, Thiệu Giao, Thiệu Hòa,Thiệu Hợp, Thiệu Long, Thiệu Lý,Thiệu Minh, Thiệu Ngọc, Thiệu Nguyên, Thiệu Phú, Thiệu Phúc,Thiệu Quang, Thiệu Tâm, Thiệu Tân,Thiệu Thành, Thiệu Thịnh, Thiệu Tiến, Thiệu Toán, Thiệu Trung, Thiệu Vận, Thiệu Viên, Thiệu Vũ.
Thiệu Hóa ngày nay được kiến tạo từ hai vùng đất thuộc huyện Quân Ninh và huyện Tư Phố trong quận Cửu Chân. Dấu tích thành Tư Phố - trị sở của quận và lỵ sở của huyện, điểm hội tụ, đầu mối giao thông thủy - bộ của cả khu vực hiện vẫn còn tại làng Giàng (Dương Xá - Thiệu Dương).
Sang thời Lý - Trần, các huyện trên đổi tên là Lương Giang và Cửu Chân. Đến thời Lê, các tên gọi Thụy Nguyên và Đông Sơn lần lượt được sử dụng.
Sở dĩ Quân Ninh được gọi là Lương Giang vì có sông Lương (tên khác nữa là sông Lường), tên gọi cũ của sông Chu. Đến thế kỷ XV, vào đầu thời Lê Thuận Thiên (năm 1428), do là nơi phát tích của nhà Lê nên triều đình đem đất này đặt làm Tây Kinh và đổi tên huyện là Thuỵ Ứng. Khi Lê Hồng Đức định bản đồ, đưa huyện lỵ vào phủ Thiệu Thiên, lấy lại tên cũ là Lương Giang. Đời Đoan Khánh đổi tên thành huyện Thuỵ Nguyên.
Thời Nguyễn, dưới triều Gia Long, huyện lỵ dời về Mật Vật. Dưới thời Minh Mệnh đóng ở Kiến Trung (nay thuộc xã Thiệu Hưng). Năm 1815, phủ Thiệu Thiên đổi tên thành phủ Thiệu Hóa.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, phủ Thiệu Hóa được đổi thành huyện Thiệu Hóa. Ngày 5-7-1977, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 177/CP về việc giải thể huyện Thiệu Hóa. 15 xã nằm trong vùng tả ngạn sông Chu sáp nhập vào huyện Yên Định, lập ra huyện mới mang tên Thiệu Yên. 16 xã còn lại ở hữu ngạn sông Chu sáp nhập vào Đông Sơn, lập ra huyện Đông Thiệu (năm 1982 đổi theo tên cũ là Đông Sơn).
Ngày 18 tháng 11 năm 1996, huyện Thiệu Hóa được tái lập theo Nghị định số 72/CP của Chính phủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, địa giới và tổ chức hành chính trở lại như Thiệu Hóa của 20 năm trước đây, gồm 31 xã: Thiệu Châu, Thiệu Chính, Thiệu Công, Thiệu Đô, Thiệu Dương, Thiệu Duy, Thiệu Giang, Thiệu Giao, Thiệu Hòa, Thiệu Hợp, Thiệu Hưng, Thiệu Khánh, Thiệu Long, Thiệu Lý, Thiệu Minh, Thiệu Ngọc, Thiệu Nguyên, Thiệu Phú, Thiệu Phúc, Thiệu Quang, Thiệu Tâm, Thiệu Tân, Thiệu Thành, Thiệu Thịnh, Thiệu Tiến, Thiệu Toán, Thiệu Trung, Thiệu Vân, Thiệu Vận, Thiệu Viên, Thiệu Vũ.
Ngày 29 tháng 2 năm 2012, một phần diện tích và dân số với 14,97 km² và 26.098 người của huyện Thiệu Hóa (gồm các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, Thiệu Vân) được chuyển về thành phố Thanh Hoá[1].
- ^ a ă â Nghị quyết số 05/NQ-CP của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Hoằng Hóa, Thiệu Hóa, Đông Sơn và Quảng Xương để mở rộng địa giới hành chính thành phố Thanh Hóa và thành lập các phường thuộc thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- ^ Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg ngày 08/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành bảng Danh mục và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam.
|
|
![]() | Bài viết đơn vị hành chính Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. |